Thăm dò hệ thần kinh
- Bởi : Dược sĩ Lưu Anh
- - Chuyên mục : Tin Tức Sức Khỏe
Contents
1. Cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging=MRI) não tủy
– Thu thập các tín hiệu phát ra của cơ thể dưới tác dụng của từ trường mạnh bên ngoài cho phép tất cả nguyên tử của cơ thể hướng theo một bình diện song song với từ trường.
– Sau đó người ta phá vỡ thế cân bằng đó bằng một sóng kích thích, tùy theo thời gian cần thiết để mọi nguyên tử trở lại trạng thái ban đầu (thời gian thoát điện tích) chúng ta có T1 ứng với thời gian 600ms còn T2 là 1200ms. Có thể cắt ở mọi bình diện, có thể tiêm Gadolinium.
– Khác với chụp cắt lớp là chống chỉ định tuyệt đối khi có máy tạo nhịp, kim loại trong ổ mắt, cặp kim loại, khớp háng giả và không thể thực hiện được trong giai đoạn hồi sức hoặc lúc bệnh nhân vật vã.
– Các chỉ định của MRI cũng như CTscan nhưng nó cho hình ảnh tốt hơn, nhất là tổn thương ở hố sau và tủy sống, phát hiện nhồi máu não ngay từ trong những giờ phút đầu.
2.Chụp động mạch não – tủy
– Phương pháp này được Ergas Moniz đề xuất năm 1927 là phương pháp chụp hình hệ động mạch não tủy bằng cách bơm cản quang tan trong nước như vasotrast, urographin, omnipaque… vào mạch máu.
– Từ đó đã có nhiều kỹ thuật cải tiến như chụp hàng loạt và nay có chụp đánh số, không gian 3 chiều (Scanner xoắn ốc – Scanner hélicoidal) cho thấy một cách hoàn hảo về mạch máu não.
3. Chỉ định:
– Tắc nghẽn hay hẹp mạch hệ cảnh, sống nền.
– Dị dạng mạch (phình động mạch, thông động tĩnh mạch).
– Tổn thương choán chỗ trong nội sọ (u, máu tụ, apxe…).
4. Chống chỉ định:
– Dị ứng với cản quang.
– Suy thận cấp.
– Suy chức năng gan nặng.
– Rối loạn đông máu.
– Tăng huyết áp không ổn định, viêm nội tâm mạc và nhồi máu cơ tim chưa ổn định.
5. Biểu hiện bệnh lý:
– Hẹp thường nằm ở vị trí xi phông và nguyên ủy của động mạch cảnh trong, động mạch ống sống đoạn nằm trong lỗ ngang, ít thấy ở động mạch trong sọ ngoài cơn tăng huyết áp ác tính nhưng lúc này lại co mạch toàn bộ.
– Dị dạng mạch: phình động mạch thường gặp ở đa giác Willis, còn thông động tĩnh mạch lại ở bề mặt phần sau võ não với hình ảnh các búi mạch.
– Máu tụ ngoài màng cứng và dưới màng cứng cho hình ảnh vô mạch tương ứng dạng hình thoi nằm sát xương sọ và hình liềm.
– Choán chỗ trong hộp sọ: u, ápxe hay máu tụ. Nếu choán chỗ ở thùy trán thường đẩy nhánh động mạch não trước rất nhiều khi chụp nghiêng.
– Choán chỗ thùy đỉnh đẫy điểm Sylvien xuống dưới ở phim thẳng, còn ở phim nghiêng các nhánh động mạch não giữa cũng bị đẩy xuống. Ở thùy thái dương trên phim thẳng điểm Sylvien bị đẫy lên trên, trên phim nghiêng động mạch não giữa cũng bị đẩy lên.
– Ở thùy chẩm rất ít thay đổi, nếu u lớn có thể thấy các động mạch não giữa, động mạch não trước như bị đàn xếp lại. Ngoài ra choán chỗ trong nội sọ còn cho thấy hình ảnh của tăng áp lực nội sọ đó là các mạch máu bị căng (ít uốn lượn) do phù não làm biến mất các rãnh giữa các hồi não.
– Nhìn chung tổn thương hệ thống nền khó phát hiện hơn hệ cảnh. Nếu chụp ở pha muộn (4-7 phút sau) thì thấy hệ tĩnh mạch, nó cũng cho thấy tắc tĩnh mạch với hình ảnh trực tiếp là rỗng và không đều còn gián tiếp có thể thấy dãn tĩnh mạch và chảy ngược dòng.
Copy ghi nguồn: https://health-guru.org
Link bài viết: Thăm dò hệ thần kinh
Không có phản hồi